Cây quế tên khoa học là Cinnamomum Cassia. BL thuộc họ long não Lauraceae. Tên tiếng anh là Cinnamon, tên thông thường là cây quế, ở Việt Nam, nhân dân ta gọi với tên gọi khác nhau theo từng địa phương như Quế Thanh, Quế Quy, Quế Quang, Quế Yên Bái, Quế Bi, May quế.
Cây quế là loại cây thân gỗ, sống lâu năm, cây trưởng thành có thể cao trên 15 mét, đường kính thân cây có thể đạt 1,3 m. Quế lá to trưởng thành dài từ 18-20 cm, quế lá nhỏ từ 6-8 cm, cuống lá dài khoảng 1 cm. Quế có tán lá hình trứng, thường xanh quanh năm, thân cây tròn đều, vỏ cây màu xám và hơi nứt rạn theo chiều dọc. Các bộ phận của cây quế như vỏ, lá, hoa, rễ đều có chứa tinh dầu, trong đó vỏ cây có chứa nhiều tinh dầu nhất. Tinh dầu quế có màu vàng, thành phần chủ yếu là Aldehyt Cinamic chiếm khoảng 70-90%. Cây quế sinh trưởng từ 8 hoặc 10 tuổi thì ra hoa, hoa quế mọc ở nách lá đầu cành, hoa ra thành từng chùm, hoa nhỏ bằng nửa hạt gạo, mày trắng hay phớt vàng. Quế ra hoa vào tháng 4, 5 và quả chín vào tháng 1, 2 năm sau. Quả quế chưa chín có màu xanh, khi chín chuyển màu tím than, , một kg hạt chứa khoảng 2500-3000 hạt. Quế có bộ rễ phát triển mạnh, rễ cọc cắm sâu vào nền đất, vì vậy cây quế có khả năng sống tốt ở những vùng đồi núi dốc. Cây quế lúc nhỏ ưu bóng râm, khi lớn cần nhiều ánh sáng và khi trưởng thành thì hoàn toàn chịu sáng. Tinh dầu quế có vị cay, thơm, ngọt nên rất được ưu chuộng.
Quế là một loại cây có yêu cầu tương đối đặc biệt về điều kiện tự nhiên và phát triển được ở một số nơi nhất định miền nhiệt đới, nắng lắm, mưa nhiều, độ ẩm cao vv… Cây quế phát triển trên loại đất mùn xốp, thoáng nước, có độ dốc 10-20°, cây ưa mát với nhiệt độ trung bình 20-25°C. Do vậy trên thế giới chỉ có một số nơi mới có điều kiện thuận lợi để cho cây quế phát triển như ở Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Srilanca… Song ở những nơi này cây quế cũng chỉ có thể sinh trưởng được ở một số vùng nhất định, do vậy cây quế từ lâu đã trở thành một loại cây đặc sản của một số vùng nhiệt đới.
Tất cả các bộ phận của cây quế đều có giá trị sử dụng cho một số ngành sản xuất. Vỏ quế có thể dùng vào việc chữa bệnh, gia vị thực phẩm, đồ dùng gia đình, vv. Gỗ quế có thể dùng để chế tạo các đồ dùng như bàn ghế, tủ, đồ mỹ nghệ, cành lá có thể làm củi đốt. Tuy nhiên vỏ quế lại là bộ phận có giá trị nhất vì tinh dau quế được chưng cất chủ yếu từ vỏ cây.
Cây quế ngoài thành phần chủ yếu là Andehyt Cinnamic, còn chứa nhiều chất như ogenola, saprola, fuaurola vv.. các chất này có công dụng trong một số lĩnh vực như y học để làm thuốc chữa bệnh, trong công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng. Ngày nay, người ta thường tách lấy andehyt từ cây quế rồi chuyển hóa thành những chất thơm có giá trị khác. Trong công nghiệp thực phẩm quế được dùng làm gia vị để chế biến bánh kẹo, chất đinh hương, trong công nghiệp hàng tiêu dùng, quế được dùng làm nguyên liệu chế biến xà phòng, nước hoa, dầu chai, phấn sáp v.v.. Nhiều nơi trên thế giới, người ta đã biết dùng quế làm gia vị thực phẩm cách đây hàng trăm năm, ngày nay, quế, hồ tiêu, sa nhân, đinh hương, gừng … đã trở thành một tập đoàn gia vị có giá trị phù hợp với khẩu vị của nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt hơn nữa, khi y học hiện đại phát triển, người ta lại phát hiện ra nhiều công dụng chữa bệnh của cây quế.
Theo Đông y, cây quế có vị cay, tính giải nhiệt, vị đắng, thơm và ngọt, có tác dụng bổ tâm, thông huyết mạch, dùng để chữa chứng chân tay co quắp, đau bụng do khí lạnh, chữa phong hàn, viêm khớp, hư tâm tỳ, mạch chạy nhỏ, bệnh dịch tả cấp tính … Từ xa xưa, nhân dân ta đã biết dùng vỏ của cây quế mài vào nước đun sôi để nguội rồi uống sẽ chữa được các bệnh về tiêu hóa, hô hấp, kích thích sự tuần hoàn của máu, lưu thông huyết mạch, làm cho cơ thể ấm lên…. Quế có tính năng chống lại giá lạnh, có tính sát trùng nên nó được nhân dân ta coi là một trong bốn loại thuốc quý bao gồm: Sâm, Nhung, Quế, Phụ. Trong đời sống hàng ngày, quế được dùng để khử bớt mùi tanh của cá, làm cho món ăn thơm ngon, hấp dẫn hơn, kích thích được tiêu hóa. Ngoài ra quế còn được dùng để sản xuất bánh kẹo, , rượu quế… Quế còn được sử dụng làm hương vị, bột quế dùng trộn với các vật liệu khác sau đó đem làm hương khi đốt lên có mùi thơm dễ chịu, được sử dụng trong các đền chùa, đình miếu ở các nước Châu Á nơi có các phong tục thờ cúng tổ tiên và theo đạo Khổng, đạo Hồi. Gần đây, nhiều địa phương còn sử dụng gỗ quế, vỏ quế để làm ra các sản phẩm thủ công mỹ nghệ như bộ khay, ấm, chén, đĩa bằng gỗ quế; vỏ quế được dùng để sản xuất tấm đế lót giầy, làm dép đi trong nhà. Hiện nay các sản phẩm này đang được ưa chuộng. Riêng mặt hàng dép đi trong nhà có tẩm bột quế đã được xuất khẩu đi một số nước như Han Quoc, Nhat Ban…
Nhiều nơi trên thế giới gọi cây quế là cây “chữa bách bệnh”. Từ hàng ngàn năm qua, cây quế đã được nhân dân ta dùng làm thuốc chữa bệnh, và Que Chi trở thành một vị thuốc không thể thiếu được trong các hiệu thuốc đông y, trong các toa thuốc. Chính vì quế có nhiều tính năng, công dụng như vậy nên từ lâu nó trở thành một loại hàng hóa được buôn bán khắp nơi trên thế giới.
Một trong những tính chất đặc trưng của cây quế là làm tăng khả năng chống lạnh của cơ thể người và động vật nên quế rất được ưa chuộng ở xứ lạnh. Quế không chỉ được dùng làm gia vị cho con người mà nó còn được sử dụng để làm thức ăn cho gia súc. Ở một số nước có ngành chăn nuôi phát triển, người ta còn dùng loại quế kém phẩm chất hay các sản phẩm phụ của quế pha trộn với các loại thức ăn khác để sản xuất thức ăn tổng hợp nhằm kích thích tiêu hóa và phòng bệnh cho gia súc đặc biệt về mùa đông.
Tuy nhiên công dụng của cây quế có được khai thác triệt để hay không lại phụ thuộc vào trình độ sản xuất của công nghệ chế biến và trình độ thâm canh và điều kiện thổ nhưỡng, qui trình khai thác, bao quản, chế biến… cũng ảnh hưởng không nhỏ chất lượng của mặt hàng này.
Quế thường được gieo trồng vào tháng 1, 2 âm lịch khi mà điều kiện thời tiết rất phù hợp cho cây con phát triển. Trong 2,3 năm đầu, người trồng tiến hành cắt tỉa tỉa thưa và trồng dặm để đảm bảo cho mật độ trồng không quá 3000 cây/ha. Thời gian 5 năm đầu cần chú ý chăm sóc cây, che nắng cho cây con vì khi còn non cây ưa bóng râm, khi cây đã trưởng thành thì không phải chăm sóc nhiều. Sau khi trồng được khoảng 10 năm thì cây quế có khả năng cho thu hoạch. Việc thu hoạch được tiến hành trong hai vụ, từ tháng 2 tới tháng 4 và từ tháng 9 tới tháng 11. Thời kỳ này hàm lượng tih dầu nhiều nhất ở vỏ quế.
Khi cây quế đến tuổi cho khai thác, người trồng sẽ tiến hành thu hoạch. Việc thu hoạch có thể tiến hành bằng cách chặt hạ cả cây xuống, sau đó chặt hết cành lá tồi tiến hành bóc vỏ hoặc người ta không chặt cây mà chỉ khai thác phần vỏ để cây quế được khai thác nhiều lần. Việc khai thác một phần vỏ được tiến hành bằng cách người ta không chặt cây quế mà chỉ bóc tách một phần vỏ quế. Khi bóc vỏ người ta không bóc hết phần biểu bì ở trong cùng để sau một thời gian nó sẽ tự tái sinh lớp vỏ mới. Sau khi khai thác được khoảng 1 năm thì cây quế lại có thể khai thác lần tiếp theo. Cách khai thác này mới được nhân dân áp dụng gần đây và trong quá trình khai thác đòi hỏi người trồng quế phải rất khéo tay và có nhiều kinh nghiệm thì mới tiến hành được.
Từ lâu, Nhân dân ta đã có kinh nghiệm trồng và chế biến các sản phẩm quế. Quế có thể được dùng làm thuốc bổ, thuốc chữa bệnh, dùng làm hương liệu, thực phẩm… Từ xa xưa, Quế được mệnh danh là “Giao Chỉ ngọc quế” và luôn là vật phẩm dùng vào việc tiến cống cho các vua chúa phương Bắc. Ngày nay, do nhu cầu về sản phẩm quế trong nước và trên thế giới ngày một tăng thì các vùng trồng quế ở nước ta ngày càng được mở rộng để đáp ứng nhu cầu đó. Trên thế giới có nhiều loại quế nhưng quế Việt Nam vẫn được coi là một laoị quế quý, vẫn được các nước nhập khẩu và đánh giá cao về chất lượng. Ở Việt Nam, quế được xuất khẩu dưới dạng thô là vỏ quế c̣n cành, lá… th́ được chứng cất thành tinh dầu sau đó được sản xuất thành các loại dược phẩm như cao sao vàng, làm hương liệu cho ngành công nghiệp thực phẩm, hàng tiêu dùng…
Như vậy, Quế có rất nhiều công dụng trong cuộc sống nên nó ngày càng được đánh giá cao và sử dụng phổ biến không chỉ ở thị trường Việt Nam mà còn cả trên thế giới.